Phát hiện virus trong không khí bằng máy lấy mẫu không khí Sartorius
Đại dịch Covid-19 do virus SARS-CoV-2 gây ra cho tới nay đã chứng tỏ sự nguy hiểm tàn khốc của mình và đặt ra một thách thức lớn đối với thế giới. Các nhà khoa học trên toàn thế giới vẫn đang nỗ lực nghiên cứu để tìm hiểu các đặc điểm và hành vi lây truyền của virus.
Xem nhanh
Làm thế nào để phát hiện virus SARS-CoV-2 trong không khí?
Một nghiên cứu được tiến hành tại Phòng thí nghiệm Rocky Mountain thuộc Viện Y tế Quốc gia (NIH) Mỹ cho thấy virus SARS-CoV-2 gây Covid-19 có thể tồn tại trong không khí tối đa 3 giờ và trên một số bề mặt trong tối đa 3 ngày. Tuy nhiên, hiện tại rất khó có thể xác định được sự tồn tại của virus SARS-CoV-2 trong không khí do khó khăn trong việc lấy mẫu khí dung chứa virus.
Sử dụng máy lấy mẫu không khí là biện pháp hiệu quả có thể thực hiện được điều này. Trong đó, máy lấy mẫu không khí Sartorius từ Đức được giới chuyên môn đánh giá cao về khả năng phát hiện các virus và vi sinh vật trong không khí.
Hiện nay, Hóa Việt là đơn vị phân phối các máy lấy mẫu Sartorius chính hãng. Các sản phẩm chính của Sartorius gồm có: Máy lấy mẫu không khí di động MD8, MD8 Airscan® và AirPort MD8.
Máy lấy mẫu khí Sartorius, được thiết kế để phát hiện virus và vi sinh vật trong không khí bằng cách sử dụng bộ lọc màng Gelatine (GMF) và tấm thạch BACTairTM độc đáo. Ngoài ra, MD8 Airscan® và AirPort MD8 được dùng để lấy mẫu khí xung quanh trong phòng sạch, khu vực được kiểm soát và khu vực công cộng để tìm vi sinh vật sống.
Đặc biệt, MD8 Airscan® và AirPort MD8 có khả năng lấy mẫu không khí liên tục trong 8 giờ trở lên và chỉ sử dụng một bộ lọc màng gelatin duy nhất. Đồng thời loại trừ kết quả âm tính giả và sử dụng bộ lọc độc quyền được giữ lại cả những vi sinh vật nhỏ nhất trong không khí, cũng như theo dõi khả năng tồn tại ở mức chính xác cao.
Phương pháp kiểm tra mẫu khí để phát hiện nồng độ RNA của Aerosol SARS-CoV-2 tại các bệnh viện Vũ Hán trong đợt bùng phát dịch COVID-19
Giới thiệu chung
Bắt đầu ở thành phố Vũ Hán sau đó lan sang nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ khác. Trước mối nguy hiểm mà COVID-19 gây ra, WHO đã tuyên bố COVID-19 là đại dịch toàn cầu. Tác nhân gây bệnh đã được xác định là một loại coronavirus mới có khả năng lây nhiễm cao và được gọi là Hội chứng viêm đường hô hấp nặng do coronavirus 2 (SARS-CoV-2).
Việc truyền SARS-CoV-2 ở người thông qua ít nhất 3 nguồn:
- 1. Hít phải các giọt chất lỏng có chứa mầm bệnh
- 2. Tiếp xúc gần gũi với người nhiễm bệnh
- 3. Tiếp xúc với các bề mặt bị nhiễm SARS-CoV- 2
Mặt khác, việc lây truyền aerosol của các mầm bệnh đã được chứng minh trong các không gian hạn chế. Có nhiều bệnh về đường hô hấp lây lan qua không khí như bệnh lao, sởi và thủy đậu. Một nghiên cứu được thực hiện trong đợt dịch SARS ở Hồng Kông năm 2003 cho rằng sự lây lan trong không khí có thể đã đóng một vai trò quan trọng trong việc truyền bệnh.
Hiện tại, có rất ít thông tin về các đặc tính của SARS-CoV-2 trong không khí chứa aerosol. Điều này gây khó khăn trong việc định lượng virus nồng độ thấp trong không khí. Có rất ít tài liệu về hạn chế rủi ro, hiệu quả đánh giá, phòng ngừa và kiểm soát dịch bệnh COVID-19. Nghiên cứu về SARS-CoV-2 trong không khí được thực hiện ở các khu vực khác nhau trong hai bệnh viện và khu vực công cộng ở Vũ Hán, Trung Quốc – thành phố tâm chấn trong đợt dịch bệnh đầu tiên. Mục đích nghiên cứu của chúng tôi nhằm:
- 1. Định lượng nồng độ SARS-CoV-2 trong không khí cả trong bệnh viện và khu vực công cộng ngoài trời.
- 2. Đánh giá sự phân bố kích thước của các aerosol khí SARS-CoV-2, có thể là môi trường trung gian và lây truyền qua không khí.
- 3. Xác định tốc độ khô của SARS-CoV-2 trong không khí trong phòng bệnh nhân.
1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu này là một cuộc điều tra thử nghiệm về nồng độ và đặc điểm khí động học của khí dung SARS-CoV-2 trong không khí ở các khu vực khác nhau của hai bệnh viện:
Bệnh viện Renmin của Đại học Vũ Hán, được chỉ định để điều trị cho bệnh nhân COVID-19 có triệu chứng nghiêm trọng trong đợt dịch bệnh và
Bệnh viện dã chiến Wuchang Fangcang, một trong những bệnh viện tạm thời đầu tiên được cải tạo từ một sân vận động thể thao trong nhà. Dùng để cách ly điều trị cho các bệnh nhân có triệu chứng nhẹ và các khu vực công cộng ngoài trời ở Vũ Hán trong thời gian bùng phát vi-rút corona.
Sau đó, chúng tôi tiếp tục phân loại các địa điểm lấy mẫu thành ba loại theo khả năng tiếp cận của chúng theo các nhóm khác nhau:
- 1. Khu vực bệnh nhân (PAA), trong đó có bệnh nhân COVID-19, gồm có: Chăm sóc Chuyên sâu (ICU), Chăm sóc Mạch vành (CCU) và các phòng bệnh trong Bệnh viện Renmin, nhà vệ sinh và các trạm làm việc của nhân viên trong Bệnh viện Fangcang.
- 2. Khu vực dành cho nhân viên y tế (MSA), nơi làm việc của hai bệnh viện được các nhân viên y tế tiếp cận trực tiếp với bệnh nhân.
- 3. Khu vực công cộng (PUA): Mô tả và đặc điểm của các vị trí lấy mẫu được thể hiện trong Bảng S1.
Ba loại mẫu khí dung đã được thu thập:
- 1. Mẫu aerosol của tổng hạt lơ lửng (TSP), không có giới hạn trên của kích thước để định lượng nồng độ RNA của SARS-CoV-2 aerosol.
- 2. Các mẫu khí dung được phân tách kích thước để xác định sự phân bố kích thước của SARS-CoV-2 trong không khí.
- 3. Các mẫu khô thể aerosol để xác định tốc độ khô của SARS-CoV-2 trong không khí.
2. Lấy mẫu
Việc lấy mẫu được thực hiện trong khoảng thời gian từ ngày 17 tháng 2 đến ngày 2 tháng 3 năm 2020 theo hai đợt tại các địa điểm.
Tất cả các mẫu khí dung được thu thập trên các bộ lọc gelatin presterilized (Sartorius, Đức). Tổng cộng có 30 mẫu khí dung TSP được thu thập trên các bộ lọc đường kính 25mm được nạp vào các cuộn lọc styrene (SKC Inc, US). Mẫu khí được lấy ở tốc độ dòng cố định 5,0 lít/phút (LPM) bằng bơm di động (APEX2, Casella, US).
Tổng số 3 mẫu aerosol được phân loại kích thước đã được thu thập bằng cách sử dụng miniature cascade impactor (Sioutas, SKC Inc., Hoa Kỳ) tách aerosol thành năm phạm vi (> 2,5 μm, 1,0 đến 2,5 μm, 0,50 đến 1,0 m và 0,25 đến 0,5 m trên chất nền của bộ lọc 25mm và 0 đến 0,25 mm trên các bộ lọc 37mm) với tốc độ dòng là 9.0 LPM.
Tổng cộng có 2 mẫu khô aerosol đã được thu thập bằng cách sử dụng các bộ lọc đường kính 80mm vào một giá đỡ có diện tích là 43,0 cm2. Các bộ lọc được đặt trên sàn ở hai góc của phòng ICU của Bệnh viện Renmin trong 7 ngày.
3. Phương pháp phân tích và phân tích dữ liệu
Sau khi thu thập mẫu khí dung, tất cả các mẫu được xử lý ngay lập tức trong phòng thí nghiệm BSL-2 của Đại học Vũ Hán. Các mẫu lọc 25, 37mm và 80mm được hòa tan trong nước khử ion, sau đó TRIzol LS Reagent (Invitrogen) đã được thêm vào để làm bất hoạt virus SARS-CoV-2 và trích xuất RNA theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Chuỗi DNA đầu tiên được tổng hợp bằng bộ PrimeScript RT (TakaRa). DdPCR được tối ưu hóa đã được sử dụng để phát hiện sự hiện diện của virus SARS-CoV-2.
Phân tích 10 dữ liệu ddPCR được thực hiện với phần mềm QuantaSoft (Bio-Rad). Nồng độ được báo cáo theo quy trình của các mẫu trên mỗi microliter của phản ứng cuối cùng 1x ddPCR, được chuẩn hóa thành m-3 trong tất cả các kết quả, và do đó nồng độ RNA của virus hoặc virus trong aerosol được thể hiện trong các kết quả sau đó.
Nguồn Sartorius